12 phương châm tu dưỡng
và hành xử của môn sinh Việt Võ Đạo
Suốt đời người, mỗi chúng ta đều có 3 loại thắc mắc :
- Phải nghĩ gì ?
- Phải làm gì ?
- Phải làm sao được thành công?
- Mỗi lần giải quyết xong mọi thắc mắc, là ta đã tìm được một phương châm. Phương châm (phương: phương hướng, châm; kim) hiểu theo nghĩa hẹp, là cái kim chỉ phương hướng để tiến tới, hiểu theo nghĩa rộng, là xu hướng, là con đường phải đi mà ta muốn đi. Đi đường, đôi mắt là phương châm của thân thể. Suy nghĩ, óc là phương châm của tìm tòi, lựa chọn, phân biệt. Như vậy, trong mọi sinh ngành sinh hoạt xã hội: Từ người thợ, nhà nông, nhà buôn, tu sĩ, người lính, ai cũng có phương châm cho công việc, cho đời sống của mình để biết rằng mình phải nghĩ gì, làm gì và sao được thành công.
Việt võ đạo sinh cũng vậy, rất cần có phương châm để tu thân,dưỡng tính, hành- động và xử-thế, gọi tắt là Tu – Dưỡng Hành – Xử.
- Phương châm Tu – Dưỡng Hành – Xử của môn phái Vovinam chính là bó đuốc soi sáng con đường học võ của các môn sinh. Có thể vì: Võ thuật học được là cái xác, còn phương châm Tu – Dưỡng, Hành – Xử để tiến tới một nền võ đạo là cái hồn của các môn- sinh. Xác không hồn là xác chết, cũng như người học võ mà không có phương châm Tu – Dưỡng Hành – Xử là học lấy cái xác không hồn của Võ- thuật để trở thành vũ phu thô bạo.
- Có 12 phương châm Tu – Dưỡng – Hành – Xử dành cho các Việt Võ Đạo sinh. 12 phương châm này lại chia thành 4 loại, mỗi loại có 3 phương châm, trùng một chữ đầu để học, để nhớ và để thực hành. Đó là :
* Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “ luyện ” là luyện thể, luyện trí, luyện khí ( với bản thân ).
* Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “ tận ” là tận tình, tận tâm, tận nghĩa ( với đời ).
* Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “ thường ” là thường khiêm, thường dung, thường liên ( với người ).
* Ba phương châm bắt đầu bằng chữ “ lập ” là lập thân, lập chí, lập nghiệp ( với xã hội ).
I. BA PHƯƠNG CHÂM “ LUYỆN ” VỚI BẢN THÂN :
- Đối với bản thân, Việt võ đạo sinh phải luôn luôn hàm dưỡng công phu tự luyện, để cố gắng bỏ xấu thêm tốt, bỏ dỡ thêm hay, để mỗi ngày mỗi thêm kiện toàn tinh-tiến. Có 3 phương châm tự luyện :
1. LUYỆN THỂ : tức rèn luyện thân thể, bằng những phương pháp hô hấp, vận động thân thể và trau dồi võ thuật.
- Tại sao phải hô hấp ? Vì hô hấp là phương pháp tối yếu của việc điều động kinh mạch, làm cho thân tâm điều hoà, phóng khoáng, hô hấp đúng cách làm cho tinh thần khỏi mỏi mệt, khí huyết lưu thông, sinh lực dồi dào.
- Tại sao phải vận động thân thể ? Chính vì thân thể con người là nguồn gốc của mọi cơ năng liên lạc, tiếp xúc với ngoại vật. Thân thể có cương tráng, con người mới hoạt động và yêu đời, gạt bỏ những ý nghĩ bạc nhược, bị yếm thế. Khởi đầu, vận động thân thể bằng những phương pháp thể dục, thể thao thông thường. Sau đó, vận động thân thể bằng những phương pháp luyện “thân thép”(tức: nội, ngoại công). Ngoài ra muốn vận động thân thể có hiệu quả hoàn toàn, cần tiết chế những thú vui làm tổn hại sức khoẻ.
- Tại sao phải trau dồi võ thuật ? Vì võ thuật là tinh hoa cao nhất của việc luyện thể. Người chưa có võ công cần học võ để biết cách vận dụng thân thể, điề động kinh mạch và bíêt cách sử dung khi lâm sự. Người có võ công rồi cũng cần luôn luôn trau dồi võ thuật để sức khoẻ và võ học của mình được luôn luôn tăng tiến.
Cho nên, Việt-Võ-Đạo-Sinh phải thường xuyên nhớ tới phương đầu tiên của mình trong việc tu dưỡng là luyện thể, để ứng dụng trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh.
2. LUYỆN TRÍ : tức rèn luyện trí tuệ, bằng những phương pháp học, tự học, tập quan sát, nhận định, luôn luôn tham gia các cuộc hội ý và hội thảo.
- Học: ở thầy, ở bạn, ở trường học, ở trường đời. Học ở những người giỏi hơn và ở cả những người kém mình nữa, nên nhớ câu thành ngữ văn học: “học ăn, học nói, học gói, học mở” để nhận thức và chiêm nghiệm.
- Tự học: Tức học một mình, bằng sách vở và hàm thu hoặc chiêm nghiệm. Từ xưa biết bao nhiêu danh nhân chỉ vì có chí tự học từ nhỏ đã làm nên sự nghiệp lớn.
- Tập quan sát, nhận định: Tức tập xem xét, suy nghĩ, tìm hiểu. Người quan sát, nhận định giỏi là gây được thói quen xem xét, suy nghĩ, tìm hiểu vừa đúng vừa nhanh. Quan sát, nhận định giỏi đối với người lính rên chiến trường, là chỉ đảo mắt nhìn qua đã tìm thấy địch, để ra tay hạ thủ trước, quan sát nhận định giỏi đối với người võ sĩ càng cần thiết hơn nữa, vì còn cần trong cách xử sự với đời, ứng phó với nguy cơ, chứ không phải chỉ dùng để thắng lợi trong trường hợp dụng võ. Quan sát, nhận định giỏi đối với người lãnh đạo là chỉ huy và luôn luôn nắm vững được các đầu mối sự việc để đi tới quyết định cuối cùng và tiêu diệt được những gì sẽ tới, phải tới.
- Hội ý: là những cuộc trao đổi ý kiến giữa một nhóm năm, bảy người. Tất cả những phương pháp “ luyện trí” trên mới giúp ta trở thành một người tài giỏi đơn độc trong xã hội. Nói theo cách nói của thời đại, là lối tài giỏi “ anh hùng cá nhân” của thời trung cổ. Ngày nay, trình độ hiểu biết của loài người có tiến xa hơn, việc gì cũng tổ chức tập thể, có tính cách đại qui mô, nên không thể nào còn tiếp tục dùng lối sống “ anh hùng cá nhân” để đi tới thành công. Muốn thành công “phải biết mình biết người”, phải điều hoà chủ quan với khách quan.
- Muốn điều hoà chủ quan với khách quan, trước hết ta phải thực nghiệm bằng cách trao đổi ý kiến với bạn hữu, đồng môn, hoặc thân nhân của ta. Nhưng hội ý không có nghĩa là “ ba phải” nhu nhược, thụ động, mà hội ý là để thông hiểu mọi khía cạnh của sự việc, của vấn đề ta cần tìm hiểu. Khi thông hiểu rồi, cần phải có một quyết định rõ ràng, sáng sủa, thẳng thắn, mới tránh khỏi những tình trạng do sự trì chậm hoặc làm việc tắc tránh.
- Hội thảo: Là những cuộc thảo luận của nhiều người. Khi việc hội ý gồm nhiều người quá, phải tổ chức những cuộc thảo luận công công nhiều người một lúc, vừa để tiết kiệm thời giờ, vừa để mọi người có cơ hội phát biểu ý kiến riêng và đi đến một quyết định chung: Đó là hội thảo.
- Hội thảo khác với hội ý ở chỗ: Hội ý có tính cách thân mật, còn hội thảo có tính cách công cộng, công khai. Vì thế, trong những buổi hội thảo, những ý kiến bất đồng được phát công khaỉơ những nơi công cộng, dù có hay không có một chủ đích nào đó. Điều cần phân biệt, là hội ý khác với hội thảo ở chỗ: Có những người khi nói chuyện tâm tình rất giỏi, nhưng phát biểu ý kiến ở giữa đám đông lại rất dở. Do đó muốn nuôi hoài bão lớn lao, đảm đương trọng trách cần phải tham dự những cuộc hội thảo và tập quen với cách phát biểu ý kiến tại những nơi công cộng.
Tóm lại, Việt Võ Đạo Sinh muốn luyện trí cho đầy đủ, cần phải tự trau dồi bằng cách: Học, tự học, tập quan sát, nhận định, và đồng thời, cần phải thực tập những điều đã học hỏi được, bằng hội ý và hội thảo.
3. LUYỆN KHÍ: tức rèn luyện thần khí, để tâm hồn luôn luô thanh thản, sáng suốt khi tìm hiểu và nhận xét sự việc.
- Những bậc thánh nhân đạt tới mức độ sáng suốt, thông thạo mọi việc, ngoài việc tiết chế dục vọng, còn một công phu hàm dưỡng thân khí tới cao độ.
Phuong phap tu dưỡng thần khí gồm có :
- Cố tránh những tình cảm, cảm xúc bộc phát trong đời sống. Có 7 tình cảm, cảm xúc gọi là: Hỉ ( mừng ), nộ ( giận ), ai ( buồn ), lạc ( vui ), ái ( yêu ), ố ( ghét ), cụ ( sợ ).
- Chúng ta chỉ thường nhận, không phải là thánh nhân, nên không phải tuyệt diệt được những tình cảm, cảm xúc trên. Tuy nhiên chúng ta có thể cố gắng tiết chế bớt những tình cảm, cảm xúc quá độ. Châm ngôn ta có câu “ quá giận mất khôn” chính là ở trường hợp này.
-Đã cố gắng tiết chế bớt những tình cảm, cảm xúc quá mạnh rồi, ta phải biết lắng tâm sự, gan cho trong, lọc cho hết những tư tưởng hỗn tạp ở trong lòng, để thần khí được thanh thoát, sáng suốt mà giao cảm với vạn vật.
Sau đó, chúng ta còn tiếp tục vận dụng :
-Về tinh thần : Vận dụng óc tổng hợp và phân tích để kết hợp và mổ xẻ mọi sự việc.
- Về thể chất : Tự luyện một lối sống điều độ từ ăn, ngủ, làm việc, cũng luôn luôn điều dưỡng sức khỏe bằng mọi cách, để có thể chống đối với mọi thay đổi của thời tiết và tật bệnh.
* Tóm lại, luyện khí là phương pháp quay nhìn vào tâm thể, nhằm mục đích rèn luyện cho tinh thần được thanh thản, sáng suốt, bình tỉnh để hành xử trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh.
II. BA PHƯƠNG CHÂM “ TẬN ” ĐỐI VỚI ĐỜI :
Cố gắng tự luyện về thể, trí và khí, Việt Võ Đạo Sinh còn cần phải đối xử tận tình, tận tâm và tận nghĩa với đời, để cuộc sống có ý nghĩa hơn, và để mỗi ngày ta hiểu ta hơn, hiểu người hơn và có thêm nhiều người thông cảm, thương mến ta hơn, trong cuộc sống. Có thế, Việt Võ Đạo Sinh mới gặt hái được thành công khi truyền bá tinh thần Việt Võ Đạo với quần chúng và phản ánh được tinh thần tự giác, vị tha, nghĩa hiệp, dũng cảm, hướng thượng của môn phái VoViNam.
Có 3 phương châm đối xử với đời:
1. TẬN TÌNH : tức đối xử với tất cả cảm tình đôn hậu mà mình muốn có. Muốn thế phải yêu đời. Phương châm này áp dụng vào thực tế, có 4 trường hợp đối đãi:
- Trường hợp I : Tận tình với thân hữu: Là luôn luôn giúp đỡ bạn bè với tình tương ái. Tình tương ái ở đây là: Yêu kính lẫn nhau, không quản ngại những hy sinh, thua thiệt, để tình cảm càng ngày càng đằm thắm hơn.
- Trường hợp II : Tận tình với đồng môn: Đồng môn là các bạn võ trong môn phái, những người bạn cùng mình đứngchung một hệ phái võ thuật và thờ chung một lý tưởng võ đạo. Đốivới các đồng môn, Việt Võ Đạo Sinh phải luôn luôn giữ vững tinh thần đồng cam cộng khổ, tức cùng nhau chia sẻ những vinh nhục, vui buồn của môn phái trong mọi trường hợp hành xử.
- Trường hợp III : Tận tình với các võ hữu; Võ hữu là danh từ gọi chung những người bạn võ của mình. Ở đây, võ hữu có nghĩa là những người bạn võ thuộc các môn phái khác, tuy không đứng chung một môn phái với mình, nhưng cũng là những người bạn cùng theo đuổi một mục đích võ học nào đó như mình.
Với các võ hữu, Việt Võ Đạo Sinh phải nêu cao tình tương liên tức cùng kết liên, giúp đỡ nhau, để cùng sát cánh với nhau giúp đời.
- Trường hợp IV : Tận tình với đời: Đời, tức cuộc đời, bao gồm mọi thành phần xã hội.
Vì xã hội có thể tốt hay xấu, nên người đời có trăm ngàn tính tình khác nhau. Người đời không phải là bậc Thánh, cũng như không phải là loài quỹ dữ, nên ai cũng có những tính tốt, tính xấu. Đối với tính tốt, ta khích lệ. Đối với tính xấu ta giúp họ sửa đối với tình cảm đôn hậu, đó là lối đối xử tận tình.
Muốn thế, phải có những hành động minh bạch, có ý thức, để mọi người đều dễ dàng cảm thấy, nhận thức được. Có hoà đồng, kết liên với người mới tránh được những hiểu lầm, hoặc hận thù vô nghĩa và đi đến sự tương thân, tưng trợ. Tương thân, tương trợ chính là hành động rõ rệt nhất của việc kết liên, hòa hợp với người.
Muốn đối xử tận tình với đời, ta phải luôn luôn giữ vững lòng từ ái, yêu thương tất cả mọi người, bằng cả ngôn ngữ, cử chỉ và việc làm thực tế.
Tóm lại, phương châm “ tận tình” áp dụng trong cách hành xử với đời là tương ái thân hữu, đồng cam cộng khổ với đồng môn, tương liên với võ hữu và từ ái với đời.
2. TẬN TÂM : tức đối xử hết lòng với bạn và với đời. Đã đối xử tận tình, còn cần phải đối xử tận tâm nữa, có những người đối xử với nhau tận tình, nhưng không tận tâm giúp đỡ nhau. Tận tình bộc lộ ra ngoài, tận tâm lắng động bên trong. Tận tình bộc lộ trong một lúc, một trường hợp, một hoàn cảnh. Tận tâm lắng động mãi mãi trong sự sâu kín của tâm hồn. Do đó, tình cảm khi càng vào sâu, càng âm thầm, kín đáo, sâu sắc. Điều cần phân biệt, Việt – Võ – Đạo – Sinh không phải là tu sĩ hay nhà hiền triết sống trong tháp ngà suy tưởng, mà là người thực tế, nguời hành động, nên phải áp dụng những tính tình tốt kia vào hành động, vào thực tế.
Phương châm “ Tận tâm ” khi áp dụng vào thực tế, cần có 3 đức tính : Chí thành, chí tín, chí công.
* Chí thành : Là lúc đối đãi bao giờ cũng lấy sự thành thật làm căn bản. Nên nhớ: Kẻ gian dối chỉ có thể thành công nhất thời, người thành thật thành công trường cửu. Giả dối chỉ là lâu đài xây trên bãi cát, còn thành thật là cây đại thụ bắt rễ vào lòng người.
* Chí tín : Là lúc nào cũng trọng lời hứa, lời nói. Thà không nói, không hứa, nhưng khi đã nói đã hứa là làm, đó là chí tín. người có đức chí tín sẽ luôn luôn gây được niềm tin trong lòng mọi người xung quanh. Đó là một trongnhững bí quyết thành công.
* Chí công : Là lúc nào cũng công bằng, chánh trực, luôn luôn coi mọi người như nhau, đối xử công bằng với mọi người, không để tình riêng xen lẫn vào việc đối đãi chung.
Người có đức chí thành rồi phải giữ đúc chí tín nữa, vì chí tín là mặt ngoài của sự đối xử thành thật, trong việc giao dịch với mọi người. Chí tín rồi, phải giữ đức chí công nữa, vì chí công là cách cư xử, đối đãi trong mọi trường hợp.
Tóm lại, phương châm tận tâm vừa hàm dưỡng những đức tính này vào hành động, vào thực tế. Phương châm tận tâm gồm có 3 đức tính: Chí thanh, chí tín, chí công.
3. TẬN NGHĨA : tức đối xử có nghĩa thủy chung với cả mọi người.
Phương châm này có hai trường hợp áp dụng :
* Trường hợp I : Đối với bạn và đờ '' :
Những người thân hay không cùng chung một lý tưởng. Tuy nhiên với tinh thần Võ Sĩ Đạo bao giờ ta cũng giữ một lòng chung thứ nhất, không lừa dối, không phản bội, bất cứ vì một lý do nào và trong trường hợp nào. Bởi vậy, Việt Võ Đạo Sinh khi giao kết, cộng tác với ai, phải thận trọng ngay từ lúc đầu. Nếu trong trường hợp bất đắc dĩ phải thay đổi ý kiến, chỉ nên thay đổi ý kiến bằng sự im lặng rút lui. Tại sao phải im lặng rút lui ? Chính vì lỗi tại ta nhận xét kém cõi, đánh giá lầm người, lầm việc: Nên cách hay hơn hết là im lặng lùi vào bóng tối suy tưởng để rút tỉa kinh nghiệm để trau dồi bản lĩnh được khá hơn, giỏi hơn, tốt hơn và nhất là để bảo toàn đức tính thủy chung.
* Trường hợp II : Đối với những người cùng theo đuổi một lý tưởng, đặc biệt là một môn phái :
Tại sao lại gọi là “đặt biệt”? Vì môn phái chúng ta đặt căn bản trên tinh thần võ đạo, có kỷ cương rõ rệt. Kỷ cương là đầu mối vững chắc xây dựng và phát huy môn phái song song với sự tuân phục, kính mến của người trên. Người trên ở đây là những người đã đi bước trước ta trong việc phát triển và cũng cố môn phái, những người từng trải,lịch duyệt, có kinh nghiệm hành xử.
Ta thủy chung, tận tụy với môn phái tức là đã thủy chung, tận tụy với chính ta, với lý tưởng mà ta đang theo đuổi: phục vụ dân tộc và nhân loại.
III. BA PHƯƠNG CHÂM “ THƯỜNG ” ĐỐI VỚI NGƯỜI :
Sau khi tu dưỡng bản thân, rèn luyện những đức tính đối xử với đời, Việt Võ Đạo Sinh phải tự trau dồi bản lĩnh trong việc đối xử với người. Người ở đây có thể hiểu là nhân loại.
Có 3 phương châm tu dưỡng để đối xử thường ngày với mọi người trong cuộc sống, dù thân, sơ, hay không quen biết.
1. THƯỜNG KHIÊM : tức là lúc nào cũng khiêm nhường. Nói thì dễ, làm rất khó, vì tuổi trẻ nhiều tự ái, thích nói nhiều hơn nghe. Vì vậy, muốn đạt tới công trình tu dưỡng này, Việt Võ Đạo Sinh phải luôn khả ái, dịu dàng, nhả nhặn để được cảm tình thương mến của mọi người.
2. THƯỜNG DUNG : tức là lúc nào cũng tiếp nhận, bao bọc người kể cả đối với kẻ thù nghịch. Luôn luôn tự vấn xem trong lòng mình có rộng rãi bao dung người không. Đức tính bao dung đã nảy nở trong lòng thương yêu, tha thứ mọi người và gạt bỏ được mọi phán đoán khắc nghiệt, mọi hành động cứng nhắc cùng với sự ghen ghét, đố kỵ. Và cũng chính đức tính bao dung đã biểu lộ được cái hùng khí, rộng lượng của Việt Võ Đạo Sinh và cảm hoá được kẻ lầm lỗi trở về với đường ngay, lẽ phải.
Nên nhớ: Khắt khe, xét nét người, ai mà chẳng làm được, nhưng rộng lượng, bao dung người chỉ có những người có đời sống tinh thần cao thượng, phong phú mới làm nổi.
3.THƯỜNG LIÊN : tức là luôn kết liên, hòa hợp với mọi người.
Cuộc sống của con người đầy rẩy những bất trắc, đổi thay, phiền não. Thực lòng hòa đồng, kết liên với nhau chưa chắc đã thành công trên đường đời, nữa là còn đối xử hời hợt, khinh bạc với người. Việt Võ Đạo Sinh thương yêu, bao dung người không phải chỉ ở lời nói xuông là đủ. Phải biểu lộ bằng hành động, bằng thái độ niềm nở, khoáng đạt, tỏ ra mình là hoà đồng, kết liên với người thực sự.
IV. BA PHƯƠNG CHÂM “ LẬP ” ĐỐI VỚI XÃ HỘI :
Sau khi tu dưỡng bản thân, rèn tập những phương châm đối xử với đời, với người, Việt Võ Đạo Sinh phải luôn luôn có óc thực tế. Nghĩa là phải có ý niệm và tổ chức đời sống sao cho xứng đáng với danh dự người Việt Võ Sĩ.
Có 3 phương châm thể hiện 3 nguyện vọng trong đời sống phải thực hiện, để kiện toàn công cuộc “làm người”:
1. LẬP THÂN : tức là phải gầy dựng cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Có đứng vững trong xã hội, mới có thể tự làm thăng hoa những năng khiếu, ưu điểm về tinh thần cũng hư vậy chất, để tự tồn.
Muốn thế, chúng ta phải giữ :
• Vững về đời sống tinh thần: Luôn luôn thêm tốt bỏ xấu, thêm hay bỏ dở, trong mọi trường hợp hành xử. Lầm lẫn, bị mê hoặc, bị dối gạt, cũng là một nhược điểm tỏ ra tinh thần khôg vững. Muốn thế, phải luôn luôn trau dồi tinh thần, tức những đức tính, được vững vàng phong phú.
• Vững về đời sống vật chất: Phải có một đời sống vật chất đầy đủ, độc lập trong xã hội. Tại sao phải cần có một đời sống vật chất đầy đủ, độc lập trong xã hội? Chính vì đờisống vật chất có vững vàng, mới có thể gạt bỏ những ý nghĩ nhờ vả, ỷ lại, dựa dẫm khi hành xử, để có thể giữ “ độc lập” được tư tưởng, giữ “ vô tư” được tinh thần, không bị chi phối bởi những nhu cầu vật chất thông thường.
Hàng ngày, đọc báo, chúng ta thấy có biết bao nhiêu nam nư, thanh niên vì đời sống vật chất không vững, nên đã tự huỷ hoại thân danh vì những việc làm điếm nhục đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và xã hội.
Việt Võ Đạo Sinh phải tâm niệm rằng: Đi đôi với đời sống tinh thần phong phú, cần phải “độc lập” về đời sống vật chất nữa, mới có thể lập thân được. Nhưng, ngược lại, độc lập về đời sống vật chất cũng không có nghĩa là tìm đủ mọi cách làm giàu bằng được, rồi mới nghĩ tới đời sống tinh thần, mà phải song song nghĩ tới việc phát huy cả đời sống tinh thần lẫn đời sống vật chất cùng được phong phú, vững chải như nhau. Như vậy, mới thoát khỏi những ảnh hưởng xấu trong xã hội làm hư hỏng mọi công trình tu dưỡng đời sống tinh thần của chúng ta.
2. LẬP CHÍ : tức là phải gây dựng cho mình chí hướng. Vì sau khi thân đã “lập” rồi, nếu không có một chí hướng cao cả để phụng sự và tiến tới, con người sẽ chẳng khác gì loài vật: chỉ cốt ăn no, ngủ kỹ, yên phận.
Có chí hướng, cuộc sống của chúng ta chẳng những có nhiều thú vị hơn, mà còn khiến cho chúng ta cảm thấy được sống xứng đáng hơn, với nghĩa vụ làm dân và làm người của mình.
Chí hướng của chúng ta chính nhắm vào việc phụng sự dân tộc và nhân loại. Phụng sự dân tộc, là nghĩa vụ làm dân. Phụng sự nhân loại, là nghĩa vụ làm người. Muốn làm tròn được hai nghĩa vụ cao cả này,Việt Võ Đạo Sinh phải lập chí ngay từ lúc thiếu thời, càng sớm bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Đó là chí hướng cao cả của mỗi chúng ta. Và đó cũng là lý tưởng mà môn phái VoViNam đang theo đuổi.
3. LẬP NGHIỆP tức là phải gây dựng cho mình một sự nghiệp.
Tất cả những công trình của những việc làm có lý tưởng của mỗi chúng ta thâu hái được kết quả tốt, đều gọi là sự nghiệp. Vì thế, sự nghiệp là phần thưởng cho mỗi cá nhân sau khi hoàn thành sứ mạng phục vụ lợi ích chung. Sự nghiệp khác với danh phận ở chỗ: Sự nghiệp là thuộc lợi ích chung, danh phận chỉ biểu dương tên tuổi, địa vị mà mình đang có, không nhất thiết là có thuộc lợi ích chung hay không.
Việt Võ Đạo Sinh cần chú trọng tới sự nghiệp, đặt sự nghiệp lên danh phận. Ví dụ: cùng là Võ Sư, nhưng có thể người này có sự nghiệp, người kia chưa có, tuy cả hai cùng có danh phận là Võ Sư. Sự nghiệp bao giờ cũng hàm chứa ý nghĩa tốt đẹp. Danh phận chỉ là cái cầu. Sự nghiệp là một khung cảnh lớn. Do đó chúng ta cần chú trọng tới sự nghiệp hơn là chú trọng tới danh phận, vì sự nghiệp còn mãi, nhưng danh phận có thể chỉ có tính cách nhất thời.
Muốn thế, ta phải nghĩ tới việc lập nghiệp. Lập nghiệp là con đường tạo cho ta một nghị lực phi thường, vượt lên trên mọi gian lao, khổ hạnh để tìm hưởng hạnh phúc lâu dài.
Người tha thiết đến sự nghiệp là người có một tinh thần, ý chí và nghị lực bền bỉ, không hề kiêu hãnh khi thành công, không hề nản lòng khi thất bại. Không một sự nghiệp nào không hao tốn mồ hôi, nước mắt ( Và đôi khi cả xương máu nữa) mới có thể thành công. Vì thế, người có ý chí lập nghiệp là người không bao giờ sợ khó, ngại khổ, vì hiểu rằng muốn gây dựng nên sự nghiệp, cần phải tự thắng mình trước đã.
Tóm lại, lập thân, lập chí, lập nghiệp là 3 loại phương châm căn bản để Việt Võ Đạo Sinh biết sống cho ra sống, biết hành xử hợp tình hợp cảnh, để đạt tới một lý tưởng cao đẹp cho đời sống bằng công phu tu dưỡng của mình: Công phu Tu – Dưỡng – Hành – Xử của Việt Võ Đạo Sinh.
(Theo tài liệu môn phái Vovinam – Việt Võ Đạo)